Calcium Phosphate


Phân loại:

Dược chất

Mô tả:

Tên thuốc gốc (Hoạt chất)

Calcium phosphate (Canxi photphat)

Loại thuốc

Chất khoáng

Dạng thuốc và hàm lượng

Bột pha hỗn dịch uống 2,0 g (dạng tricalci phosphat tương đương 0,6 g canxi nguyên tố).

Bột pha hỗn dịch uống 1200 mg / 800 IU chứa Colecalciferol (vitamin D3) 20 μg (tương đương 800 IU) và calcium phosphate 3100 mg (tương đương 1200 mg canxi nguyên tố).

Dược động học:

Hấp thu

Khoảng 30% lượng canxi sử dụng được hấp thu ở phần gần của ruột non. Sự hấp thu canxi ở ruột tỷ lệ nghịch với lượng canxi ăn vào, vì vậy khi chế độ ăn ít canxi sẽ dẫn đến tăng hấp thu bù, phần nào do tác động của vitamin D. Mức độ hấp thu giảm đáng kể theo tuổi. Các bệnh có kèm chứng phân có mỡ, tiêu chảy, kém hấp thu mạn tính ở ruột cũng tăng thải canxi qua phân.

Phân bố

Khoảng 40% canxi huyết tương liên kết với protein, đặc biệt là albumin, khoảng 1/10 là chất khuếch tán, nhưng liên kết với anion (photphat), phần còn lại là canxi dạng ion khuếch tán có tác dụng sinh lý.

Chuyển hóa

Chưa ghi nhận.

Thải trừ

Sau khi dùng, lượng ion canxi được thải qua nước tiểu là hiệu số lượng được lọc tại cầu thận và lượng được tái hấp thu. Sự tái hấp thu ở ống thận rất có hiệu lực vì có đến hơn 98% lượng ion canxi lọc qua cầu thận được tái hấp thu vào máu.

Hiệu quả tái hấp thu được điều hòa chính bởi hormon cận giáp và cũng bị ảnh hưởng bởi sự thanh lọc Na+, sự có mặt của các anion không bị tái hấp thu, và các chất lợi niệu. Thuốc lợi niệu tác động tại nhánh lên của quai Henle làm tăng canxi niệu.

Ngược lại chỉ có thuốc lợi niệu thiazid là không gắn liền sự thải trừ Na+ và Ca+, dẫn đến giảm canxi niệu. Hormon cận giáp điều hòa nồng độ canxi huyết do huy động canxi từ xương, vì vậy làm tăng canxi huyết. Canxi niệu chỉ bị ảnh hưởng ít bởi chế độ ăn canxi ở người bình thường.

Một lượng canxi đáng kể được thải trừ vào sữa trong thời kỳ cho con bú, một phần thải qua mồ hôi và qua phân.

Dược lực học:

Calcium phosphate dạng uống được dùng điều trị hạ canxi huyết mạn và thiếu canxi. Hạ canxi huyết mạn xảy ra trong các trường hợp: Suy cận giáp mạn và giả suy cận giáp, nhuyễn xương, còi xương, suy thận mạn, hạ canxi huyết do dùng thuốc chống co giật, hoặc khi thiếu vitamin D.

Thiếu canxi xảy ra khi chế độ ăn hàng ngày không cung cấp đủ canxi, đặc biệt là ở thiếu nữ và người già, phụ nữ trước và sau thời kỳ mãn kinh, thiếu niên. Do tăng nhu câu về canxi nên trẻ em và phụ nữ là người có nhiều nguy cơ nhất. Giảm canxi huyết gây ra các chứng: Co giật, cơn tetani, rối loạn hành vi và nhân cách, chậm lớn và chậm phát triển trí não, biến dạng xương, thường gặp nhất là còi xương ở trẻ em và nhuyễn xương ở người lớn.

Sự thay đổi xảy ra trong nhuyễn xương bao gồm mềm xương, đau kiểu thấp trong xương ống chân và thắt lưng, yếu toàn thân kèm đi lại khó và gẫy xương tự phát. Việc bổ sung canxi được sử dụng như một phần của việc phòng và điều trị bệnh loãng xương ở người ăn uống thiếu canxi.



Chat with Zalo